Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi

Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 »» 8. Giải thích phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2
»» 8. Giải thích phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký

(Lượt xem: 5)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 - 8. Giải thích phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký, thứ tám

Giải thích tên phẩm

Trong phẩm này [Phật] thụ ký cho đủ số 1.200 [vị đệ tử], vì sao tên phẩm chỉ nêu 500 vị? Đây là vì có 500 vị được thụ ký đồng một danh hiệu, 500 vị đồng thanh trình bày sự nhận hiểu, cho nên dùng ý nghĩa đó để làm tên phẩm. Phẩm này là đại đoạn thứ hai trong phần thuyết nhân duyên.

Nói chung [trong số đệ tử được] thụ ký lại có 2 nhóm, nhóm 1.200 vị và nhóm 2.000 vị.[1] [Phẩm này nói việc] thụ ký cho 1.200 vị, lại chia thành 2 phần. Phần thứ nhất là thụ ký cho ngài Phú-lâu-na,[2] phần thứ hai là thụ ký cho 1.200 vị A-la-hán.

Phần thứ nhất thụ ký cho ngài Phú-lâu-na lại chia thành 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất mở đầu, ngấm ngầm nêu sự nhận hiểu, tổng đoạn thứ hai là đức Như Lai nói việc thụ ký.

Tổng đoạn thứ nhất ngấm ngầm trình bày sự nhận hiểu lại chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu sự nhận hiểu được nên hoan hỷ; đoạn thứ hai nói việc ngấm ngầm nêu sự nhận hiểu.

Đoạn thứ nhất nói nghĩa hoan hỷ lại có 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là trình bày nguyên do được nhận hiểu, thứ hai là nêu việc nhận hiểu được rồi hoan hỷ.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu nguyên do lại có 4 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc được nghe 2 vòng thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Phân đoạn thứ hai là nghe việc thụ ký cho 5 vị đại đệ tử như ngài Xá-lợi-phất v.v. Phân đoạn thứ ba là nghe [Phật kể về] sự kết duyên từ đời quá khứ. Phân đoạn thứ tư nói việc được nghe về ba sự thông đạt không ngăn ngại của chư Phật Như Lai,[3] quán xét sự việc hết sức lâu xa trong quá khứ “vẫn thấy rõ giống như việc ngày nay”, tức là sức thần thông đại tự tại, khác xa với [khả năng của] hàng Nhị thừa chỉ thấy được đến 80.000 kiếp.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, ngài Phú-lâu-na được nghe Phật nói trí tuệ phương tiện thuyết pháp thích hợp, lại nghe Phật thụ ký cho các vị đại đệ tử sẽ thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng như nghe chuyện nhân duyên từ đời trước, lại nghe việc chư Phật có sức thần thông tự tại lớn lao nên tự thấy được việc chưa từng có, trong lòng thanh tịnh phấn chấn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bước đến trước Phật, cúi đầu chạm mặt lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên, chăm chú không rời mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, trong lòng khởi lên ý nghĩ rằng:

Phân đoạn thứ nhất, câu “được nghe Phật nói trí tuệ” tức là nhận hiểu ý nghĩa hiển bày pháp thật trong phẩm Phương tiện và thí dụ căn nhà bốc cháy; “phương tiện thuyết pháp thích hợp” tức là nhận hiểu 2 chỗ khai mở pháp quyền.

Phân đoạn thứ hai, câu “cho các đại đệ tử” tức là nhận hiểu khai mở quyền thừa; “thụ ký… …thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là nhận hiểu ý nghĩa hiển bày pháp thật.

Phân đoạn thứ ba, câu “chuyện nhân duyên từ đời trước” tức là nhận hiểu ý nghĩa hiển bày pháp thật.

Phân đoạn thứ tư, câu “sức thần thông tự tại lớn lao” tức là nhận hiểu ý nghĩa khai mở pháp quyền.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “được việc chưa từng có” trở đi trình bày việc nhận hiểu được nên hoan hỷ, [có 2 phân đoạn]. Phân đoạn thứ nhất nêu việc trong lòng nhận hiểu nên hoan hỷ. Phân đoạn thứ hai nói sự cung kính bày tỏ ra hình thức bên ngoài. Vì xưa nay chưa từng nghe việc khai thị trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật mà nay được nghe, cho nên nói là “được việc chưa từng có”.

Nói “trong lòng thanh tịnh” là vì đã dứt trừ sự bám luyến với Niết-bàn, phá trừ được biệt hoặc. Khai mở tri kiến Phật cho nên gọi là “phấn chấn”. Nhờ Phật mà được nhận hiểu cho nên khởi sinh sự cung kính. Nếu giải thích theo bản tích thì là mừng vui vì các hạnh chân thật.

Đoạn thứ hai từ câu “trong lòng khởi lên ý nghĩ rằng” trở đi là ý chính nêu việc ngấm ngầm trình bày sự nhận hiểu. [Đoạn này có 2 tiểu đoạn.] Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc ngấm ngầm nhận hiểu. Tiểu đoạn thứ hai nêu việc ngấm ngầm mong cầu [đức Như Lai] nêu rõ hình tích [thị hiện] mà thụ ký cho.

Trong cả 2 vòng thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ ở trước, [các vị đệ tử] đều nói ra thành lời trình bày chỗ nhận hiểu, vì sao ở đây lại chỉ ngấm ngầm trong suy nghĩ? Vì trước đây hàng hạ căn còn chưa khai ngộ, sự việc cần phải nói rõ ra để khuyến khích, khơi động. Nay hàng hạ căn đã tỏ ngộ rồi, không còn ai phải khuyến khích khơi động, cho nên chỉ ngấm ngầm suy nghĩ, không nói ra.

Lại nữa, phần trước chỉ trình bày sự nhận hiểu, không thỉnh cầu nêu rõ hình tích thị hiện, cho nên nói ra không có sự hiềm nghi. Nay thì vừa nêu sự nhận hiểu, vừa nêu rõ hình tích thị hiện, cho nên chỗ nhận hiểu chỉ âm thầm suy nghĩ, muốn tránh sự chê trách hiềm nghi nên ngấm ngầm không nói ra; ngấm ngầm suy nghĩ như vậy là thích hợp với hoàn cảnh. Lại nữa, im lặng nhận hiểu là sự nhận hiểu quan trọng. Như ngài Duy-ma-cật im lặng là chân thật thể nhập pháp môn Bất nhị. Lại nữa, pháp quyền thật không thể nghĩ bàn, không nói không nghĩ mà là có nói có nghĩ. Không nói mà nói, cho nên phần trước dùng lời để trình bày sự nhận hiểu. Lại không nghĩ mà nghĩ cho nên ở đây mới ngấm ngầm nhận hiểu.

Phần trước không thỉnh cầu [Phật] nêu rõ hình tích là có ý gì? Vì hàng hạ căn chưa tỏ ngộ, cho nên không thỉnh cầu nêu rõ hình tích. Nay hàng hạ căn đã nhận hiểu được rồi, việc quyền thừa giáo hóa đã trọn đủ, nếu nói rõ hình tích thị hiện của hàng hạ căn thì tất nhiên rõ biết hàng trung căn, thượng căn đều có pháp quyền thừa như vậy. Nếu [ngược lại] dựa theo hàng thượng căn và trung căn thì lại khó nhận hiểu đối với hàng hạ căn.

KINH VĂN

“Đức Thế Tôn hết sức lạ lùng đặc biệt, việc ngài làm thật vô cùng hy hữu. Ngài có thể tùy thuận biết bao nhiêu là căn tánh chủng loại khác biệt của chúng sanh thế gian, dùng sự thấy biết phương tiện mà thuyết pháp, cứu thoát chúng sanh ra khỏi mọi chỗ tham đắm bám chấp. Chúng con đối với công đức của Phật thật không thể nói ra, chỉ đức Thế Tôn mới có thể rõ biết bản nguyện sâu xa trong lòng chúng con.”[4]

Tiểu đoạn thứ nhất từ câu “Đức Thế Tôn hết sức lạ lùng đặc biệt, việc ngài làm thật vô cùng ít có.” Đây là nghĩa nhận hiểu thật trí.

“Ngài có thể tùy thuận biết bao nhiêu là căn tánh chủng loại khác biệt của chúng sanh thế gian, dùng sự thấy biết phương tiện mà thuyết pháp.” Đây là nghĩa nhận hiểu quyền trí. Tức là nói căn tánh của 7 hạng phương tiện. Câu này nhận hiểu ý nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật trong phẩm Phương tiện.

“Cứu thoát chúng sanh ra khỏi mọi chỗ tham đắm bám chấp.” Tức là nhận hiểu ý nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật trong thí dụ căn nhà bốc cháy.

“Chúng con đối với công đức của Phật thật không thể nói ra.” Đây là nhận hiểu ý nghĩa trong phẩm Thí dụ cỏ thuốc nói “Như Lai lại có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các công đức khác, cho dù các ông có diễn nói trong vô lượng ức kiếp cũng không thể cùng tận.” Đã nói rằng “không thể nói ra” thì có nghĩa là suy nghĩ cũng không thể thấu đạt.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “chỉ đức Thế Tôn mới có thể rõ biết” trở đi là ngấm ngầm trong suy niệm mà thỉnh cầu [Phật] nêu rõ hình tích thị hiện và thụ ký cho. Xưng “chúng con” ở đây là ý nghĩ chung, muốn thỉnh cầu Phật nêu rõ hình tích của nhiều người. “Sâu xa trong lòng” là cội gốc, là bản nguyên từ xưa, việc làm hiện nay là hình tích thị hiện, tức là nói bản nguyện, là thệ nguyện đại từ. Do tâm đại từ, dưới vì giáo hóa chúng sanh nên phát khởi thệ, trên vì cầu thành quả Phật nên phát khởi nguyện. Trên thỉnh cầu quả Phật, tức cầu thụ ký; dưới thỉnh thuyết dạy giáo hóa chúng sanh, tức cầu Phật nêu rõ hình tích.

Lại nữa, “sâu xa trong lòng” là nêu rõ trong 3 đời quá khứ, hiện tại và tương lai đều giúp Phật truyền giảng chánh pháp, giáo hóa chúng sanh. Từ bản nguyện ấy nên mong được Phật thụ ký.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Các ông có thấy Phú-lâu-na đây chăng? Ta thường khen Phú-lâu-na là bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại cũng thường khen ngợi đủ mọi công đức của Phú-lâu-na, tinh tấn chuyên cần bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta, có thể ở trong bốn chúng mà chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, làm cho thành tựu hoan hỷ, giải thích chánh pháp một cách trọn vẹn đầy đủ mà làm lợi lạc lớn lao cho hết thảy các vị đồng tu phạm hạnh. Ngoài đức Như Lai, không ai có thể thấu suốt hết sự biện giải giảng nói của Phú-lâu-na.[5]

Từ câu “Bấy giờ, đức Phật bảo…” trở đi là tổng đoạn thứ hai, đức Phật kể lại việc thuở xưa và thụ ký. Tổng đoạn này có kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Kinh văn trường hàng có hai đoạn. Đoạn thứ nhất Phật kể lại bản nguyện cùng hình tích [của ngài Phú-lâu-na], đoạn thứ hai Phật ban lời thụ ký.

Đoạn thứ nhất có 3 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói chung về công hạnh tu nhân và hình tích thị hiện [của ngài Phú-lâu-na] trong đời đức Phật Thích-ca. Tiểu đoạn thứ hai lược nói về công hạnh tu nhân và nêu rõ bản nguyên từ thời các đức Phật trong quá khứ của ngài Phú-lâu-na. Tiểu đoạn thứ ba nói chung về công hạnh tu nhân trọn đủ của ngài Phú-lâu-na trong cả 3 đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai.

Tiểu đoạn thứ nhất nói công hạnh tu nhân và thị hiện hình tích vào thời Phật Thích-ca lại có 3 phân đoạn. Thứ nhất là nêu chỉ người muốn nói. Thứ hai là nêu khái quát ý nghĩa bản tích. Thứ ba là phân biệt giải thích về bản tích.

Phân đoạn thứ nhất, Phật nêu câu “Các ông có thấy Phú-lâu-na đây chăng?” có 2 ý nghĩa. Thứ nhất là hỏi đại chúng có nhìn thấy [Phú-lâu-na] thị hiện hình tích Tiểu thừa hay chăng? Thứ hai là hỏi có nhìn thấy công đức bản nguyên từ thuở xưa hay chăng? Đại chúng chỉ thấy thị hiện hình tích là Thanh văn, không thể thấy được bản nguyên vốn là Bồ Tát, cho nên Phật hỏi “có thấy chăng”.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Ta thường khen Phú-lâu-na…” trở đi là nêu rõ hình tích thị hiện của Phú-lâu-na, [có 2 ý nói về hình tích và bản nguyên].

Ý thứ nhất nói hình tích thị hiện của ngài Phú-lâu-na là bậc nhất trong số những người thuyết pháp. Nếu không phải bản nguyên là pháp thân mầu nhiệm thì chẳng thể dựa vào đâu mà thương xót thị hiện hình tích thù thắng bậc nhất như vậy. [Cho nên ý thứ nhất nói] từ trước đến nay Phật chỉ nói theo hình tích thị hiện, rằng Phú-lâu-na là vị thuyết pháp đệ nhất. Ngày hôm nay không phải như vậy, [mà nói rõ] trong giáo pháp Vô thượng ngài đã là bậc đệ nhất từ lâu xa. Đây là nêu hình tích để hiển lộ bản nguyên.

Ý thứ hai từ câu “Lại cũng thường khen ngợi…” trở đi là nêu nhân địa bản nguyên. Có đủ muôn công hạnh pháp môn phước tuệ, nên nói là “đủ mọi công đức”. Nhân địa bản nguyên đã có đủ mọi pháp môn, có lẽ nào chỉ hiển thị hình tích là hàng Nhị thừa thôi sao? Đây là nêu bản nguyên để làm rõ hình tích.

Phân đoạn thứ ba từ câu “tinh tấn chuyên cần bảo vệ giữ gìn…” là phần phân biệt giải thích. “Giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta” là nói trong khi thị hiện hình tích đã trợ giúp việc truyền giảng cả giáo pháp viên mãn rốt ráo và giáo pháp chưa rốt ráo. Như khi thị hiện hình tích Thanh văn trong hàng hạ căn, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp [A-hàm như vị] sữa; thị hiện hình tích trong hội Phương đẳng nhận chịu sự trách mắng, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp như vị váng sữa sống (sanh tô); thị hiện hình tích nhận lãnh giáo pháp Bát-nhã, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp như vị váng sữa chín (thục tô); thị hiện hình tích trong hội Pháp hoa được tỏ ngộ, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp như vị đề hồ. Phần nêu tổng quát về bản nguyên ở trước nói “cũng thường khen ngợi đủ mọi công đức của Phú-lâu-na”, tức là nói ý nghĩa này.

Đầy đủ quyền thật công đức mà thị hiện hình tích phát khởi [giáo pháp] như 5 vị [của sữa], trợ giúp chư Phật thực hành điều phục thuần thục chúng sanh, lẽ nào lại không phải là ý nghĩa “tinh tấn chuyên cần… …giúp sức truyền giảng giáo pháp”?

Về sự phân biệt giải thích công đức bản tích, kinh văn nói “có thể ở trong bốn chúng mà chỉ bày” tức là phân biệt giáo pháp quyền thừa chưa rốt ráo. Nói “giải thích chánh pháp một cách trọn vẹn đầy đủ” là giúp sức truyền giảng giáo pháp Bát-nhã viên mãn rốt ráo. Nói “làm lợi lạc lớn lao” là giúp Phật làm lợi lạc cho chúng sanh chưa rốt ráo. “Các vị đồng tu phạm hạnh” là nói các đệ tử rốt ráo được thị hiện hình tích giáo hóa.

Từ câu “Ngoài đức Như Lai…” trở đi là phân biệt kể rõ công đức bản địa. Nói “ngoài đức Như Lai” tức là còn dưới bậc Diệu giác;[6] “không ai có thể thấu suốt được”[7] là nói 7 hạng phương tiện.

KINH VĂN

Các ông đừng cho rằng Phú-lâu-na chỉ có thể bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta. Phú-lâu-na đã từng ở nơi đạo trường của 90 ức vị Phật[8] trong quá khứ mà bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng chánh pháp của chư Phật. Ở những nơi ấy, Phú-lâu-na cũng đều là bậc nhất trong số những người thuyết pháp. Phú-lâu-na lại thông đạt rõ ràng sáng tỏ đối với pháp không mà chư Phật thuyết dạy, đạt được bốn trí không ngăn ngại, thường có thể suy xét kỹ lưỡng để thuyết pháp thanh tịnh, không còn nghi hoặc, có đầy đủ sức thần thông của hàng Bồ Tát. [Trong những kiếp quá khứ ấy,] Phú-lâu-na thường luôn tu tập hạnh thanh tịnh suốt cả cuộc đời, nên người đời thuở ấy đều cho rằng Phú-lâu-na quả thật là Thanh văn, nhưng ông dùng phương tiện [hiện thân Thanh văn] đó để làm lợi ích cho vô số trăm ngàn chúng sanh, lại giáo hóa được vô số a-tăng-kỳ chúng sanh khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì để đạt được cõi Phật thanh tịnh, Phú-lan-na thường làm các Phật sự, giáo hóa chúng sanh.[9]

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “các ông đừng cho rằng Phú-lâu-na chỉ có thể bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta” trở đi, nêu việc từ thời chư Phật trong quá khứ để hiển bày bản hạnh của ngài Phú-lâu-na, không chỉ là trực tiếp giúp sức truyền giảng giáo pháp quyền thừa chưa rốt ráo ở chỗ Phật Thích-ca, mà từ thuở xa xưa ở nơi chư Phật quá khứ cũng đã giúp sức truyền giảng giáo pháp quyền thừa. Cho nên lấy việc giúp sức truyền giảng giáo pháp ngày nay để nêu rõ hình tích thị hiện, lấy việc giúp sức truyền giảng giáo pháp trong quá khứ để hiển lộ bản nguyên. Phần hiển lộ bản nguyên có hai ý. Thứ nhất là nói bản nguyên xa, thứ hai là nói bản nguyên gần. Bản nguyên xa thì mờ mịt khó tin nên lược đi không nói, chỉ nêu ra bản nguyên gần trong khoảng [thời đại giáo hóa của] 90 ức [vị Phật quá khứ]. [Những vị] có trí túc mệnh có thể biết được về bản nguyên gần, cho nên nêu ra bản nguyên gần để chứng minh cho bản nguyên xa.

Nói chung kinh văn nói về 90 ức [vị Phật quá khứ] là nêu rõ đầy đủ việc giúp Phật truyền giảng [các phần] giáo pháp như 5 vị [của sữa] để điều phục thuần thục chúng sanh. Nói “bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng” tức là dựa theo Phật mà giúp sức truyền giảng giáo pháp [A-hàm giống như] vị của sữa. Nói “chánh pháp của chư Phật” tức là dựa theo Phật mà giúp sức truyền giảng giáo pháp Phương đẳng giống như vị của váng sữa sống (sanh tô). “Lại thông đạt rõ ràng sáng tỏ đối với pháp không” tức là dựa theo Phật mà giúp sức truyền giảng giáo pháp giống như vị váng sữa chín (thục tô), lại cũng giống như đức Phật [Thích-ca] ngày nay chuyển pháp luân thuyết pháp Bát-nhã giảng rõ 6 pháp ba-la-mật, hỗ tương qua lại, thâu nhiếp lẫn nhau, xoay chuyển không ngăn ngại. [Ngài Phú-lâu-na] ở nơi 90 ức vị Phật [quá khứ] cũng giúp sức truyền giảng giáo pháp giống như ngày nay không khác. “Người đời thuở ấy đều cho rằng Phú-lâu-na quả thật là Thanh văn.” Vào lúc ấy còn chưa nêu rõ hình tích thị hiện, chỉ nói là [Thanh văn] vâng lệnh Phật để thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã, không nói là Đại Bồ Tát. “Giáo hóa vô số a-tăng-kỳ chúng sanh khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, tức là giúp sức truyền giảng giáo pháp [Nhất thừa giống như] vị đề hồ. Nghĩa này y theo kinh văn có thể hiểu được. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Này các tỳ-kheo! Trong thời kỳ 7 vị Phật, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong những người thuyết pháp, cho nên hiện nay ở chỗ của ta là bậc nhất trong những người thuyết pháp.[10] Đến thời chư Phật tương lai trong Hiền kiếp này,[11] Phú-lâu-na cũng sẽ là bậc nhất trong những người thuyết pháp, hơn nữa còn bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng pháp Phật, cũng như trong tương lai sẽ bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của vô số chư Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô số chúng sanh, khiến cho phát khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại vì cõi Phật thanh tịnh mà thường chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh, dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Này các tỳ-kheo! Trong thời kỳ 7 vị Phật…” trở đi, nói về công hạnh tu nhân [của ngài Phú-lâu-na] trong cả 3 đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và tương lai. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giải thích. Cũng có thể dựa theo những giải thích ở trước về việc ngài giúp sức truyền giảng các phần giáo pháp chưa rốt ráo và rốt ráo viên mãn, giống như 5 vị của sữa, làm lợi ích cho hàng Đại thừa cũng như Tiểu thừa.[12]

KINH VĂN

Dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát, trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp rồi Phú-lâu-na sẽ ở cõi này mà thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Đức Phật Pháp Minh dùng số thế giới đại thiên nhiều như số cát sông Hằng làm một cõi Phật,[13] mặt đất bằng bảy món báu, bằng phẳng như lòng bàn tay, không có núi, gò, suối, khe, ngòi, rãnh… Những lầu đài xây bằng bảy món báu đầy khắp trong cõi nước. Cung điện chư thiên ở giữa không trung nhưng rất gần mặt đất nên loài người và chư thiên có thể giao tiếp với nhau, nhìn thấy được nhau; không có các đường xấu ác, không có nữ giới,[14] hết thảy chúng sanh đều là hóa sanh, không có sự dâm dục; có thần thông lớn, thân tỏa hào quang, bay đi tự tại giữa không trung, có ý chí và niệm tưởng kiên cố, đủ các phẩm tính trí tuệ và tinh tấn; thân thể có màu vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt[15] để tự thành dáng vẻ trang nghiêm.

Chúng sanh cõi ấy thường dùng hai loại thức ăn. Thứ nhất là thức ăn bằng niềm vui chánh pháp, thứ hai là thức ăn bằng niềm vui thiền định. Cõi Phật ấy có vô số a-tăng-kỳ ngàn muôn ức na-do-tha các vị Bồ Tát, đều đạt được thần thông lớn lao, đủ bốn trí không ngăn ngại, thường khéo giáo hóa các loài chúng sanh. Số lượng Thanh văn ở cõi ấy nhiều đến mức tính toán đếm kể đều không thể biết được số lượng, tất cả đều đạt được đầy đủ sáu thần thông, ba sự sáng suốt cùng tám giải thoát. Cõi Phật ấy thành tựu vô số những công đức trang nghiêm như thế. Thời đại ấy tên là Bảo Minh, cõi nước tên Thiện Tịnh. Đức Phật Pháp Minh có tuổi thọ vô số a-tăng-kỳ kiếp, chánh pháp trụ ở đời rất lâu. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, chúng sanh dựng tháp bằng bảy báu khắp nước để thờ kính.

Đoạn thứ hai nói việc thụ ký, bắt đầu từ câu “Dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát” trở đi, kinh văn chia làm 7 tiểu đoạn.

Thứ nhất, nêu rõ việc tu nhân trọn đủ; thứ hai, từ câu “trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp”, nêu rõ quả vị viên mãn; thứ ba, nêu cõi nước rộng lớn thanh tịnh; thứ tư, nêu tên cõi nước và thời đại; thứ năm, nêu tuổi thọ của Phật; thứ sáu, nêu việc chánh pháp trụ ở đời rất lâu; thứ bảy, nêu việc cúng dường xá-lợi sau khi Phật nhập diệt.

Tiểu đoạn thứ ba nói về cõi nước rộng lớn thanh tịnh lại chia thành 5 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nói rõ cõi nước ấy rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh. “Đất… bằng phẳng như lòng bàn tay.” Kinh văn nói rõ là như “lòng bàn tay” chứ không nói như “bàn tay”. Bàn tay không bằng phẳng, cho nên không dẫn ra để so sánh. Ở dưới đáy biển có một loại đá gọi là “lòng bàn tay”, trên mặt đá ấy chẳng có một điểm nhỏ nào là không bằng phẳng nên được xem như lòng bàn tay của biển. Lại nữa, trong kinh Hiền kiếp nói rằng, đây là so sánh lòng bàn tay Phật, không phải lấy bàn tay người thường để so sánh.[16]

Phân đoạn thứ hai nêu rõ cõi Phật ấy chỉ có thuần các đường lành.[17]

Phân đoạn thứ ba nêu rõ chư thiên và loài người ở cõi Phật này có đầy đủ phước đức và trí tuệ.

Kinh Nguyệt tạng, quyển 9[18] nói về [3 loại thức ăn là] pháp thực, hỷ thực và thiền thực, kinh văn ở đây nói tổng quát là pháp hỷ thực (thức ăn bằng niềm vui chánh pháp) và thiền duyệt thực (thức ăn bằng niềm vui thiền định). Nếu phân biệt thì nên kể ra thành 3 loại khác nhau.

Phân đoạn thứ tư nêu rõ số lượng đại chúng Bồ Tát, Thanh văn [ở cõi Phật ấy] rất nhiều.

Phân đoạn thứ năm nói tóm kết tổng quát [về vô lượng công đức]. Kinh Nguyệt tạng, quyển 5 nói rằng, người không giết hại có 10 công đức. Thứ nhất là được sự an ổn không sợ sệt đối với tất cả chúng sanh, cho đến thứ mười là sau khi mệnh chung sẽ tái sanh vào cảnh giới lành.[19] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì trong cõi Phật ấy không có nỗi lo sợ đánh đập làm hại nhau, người trong cõi nước ấy có tuổi thọ lâu dài.[20]

[Cũng trong kinh Nguyệt tạng nói] người không trộm cướp có 10 công đức. Thứ nhất là được quả báo đầy đủ lớn lao, làm việc quyết đoán không có trở ngại; cho đến thứ mười là sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành. [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy có hoa báu trang nghiêm đầy khắp mọi nơi.[21]

Người không dâm dục[22] lại có 10 công đức. Thứ nhất là các căn đầy đủ tốt đẹp, làm việc quyết đoán, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[23] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy không có nữ giới.

Người không nói dối có 10 công đức. Thứ nhất là lời nói được chúng sanh tin tưởng, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[24] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy không có mùi hôi thối, có hoa báu đầy khắp mọi nơi.

Người không nói hai lưỡi có 10 công đức. Thứ nhất là thân thể không hư hoại, cho đến [thứ mười là] sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành.[25] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì ở cõi Phật ấy ma oán và đồng đảng đều không thể phá hoại được quyến thuộc.

Người không nói lời độc ác có 10 công đức. Thứ nhất là lời nói êm ái dễ nghe, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[26] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy có âm thanh thuyết pháp đầy khắp mọi nơi, [không có những lời xấu ác].[27]

Người không nói lời thêu dệt có 10 công đức. Thứ nhất là được chư thiên và loài người yêu mến kính trọng, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào đường lành.[28] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì [những chúng sanh có hình thể đoan chánh được sanh về] cõi Phật ấy, có trí nhớ lâu dài không quên, thường ưa thích lìa xa dục lạc.[29]

Người không tham lam có 10 công đức. Thứ nhất là các căn trong thân không khiếm khuyết, [cho đến thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[30] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy không có chúng ma và các hạng ngoại đạo.

Người không sân hận có 10 công đức. Thứ nhất là xa lìa tất cả những sự sân hận, cho đến [thứ mười là] sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành.[31] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì những chúng sanh dạt được tam-muội sẽ sanh về cõi Phật ấy, tâm hết sức thanh tịnh.

Người không tà kiến có 10 công đức. Thứ nhất, tâm tánh hiền thiện nhu hòa, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[32] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì chúng sanh ở cõi Phật ấy có lòng tin chân chánh.3

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:

Các tỳ-kheo, lắng nghe!
Hàng con Phật hành đạo,
Do khéo học phương tiện,
Nên không thể nghĩ bàn.

Biết người ưa pháp nhỏ,
E sợ trí tuệ lớn,
Nên các vị Bồ Tát,
Hiện Thanh văn, Duyên giác.
Dùng vô số phương tiện,
Giáo hóa khắp muôn loài.

Tự nhận là Thanh văn,
Còn cách Phật rất xa,
Độ thoát vô số người,
Khiến cho đều thành tựu.

Tuy cầu Tiểu, lười nhác,
Dần khiến cho thành Phật.
Trong giấu hạnh Bồ Tát,
Ngoài hiện tướng Thanh văn.

Ít muốn, chán sanh tử,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Thị hiện có ba độc,
Lại có tướng tà kiến.

Đệ tử Phật như thế,
Phương tiện độ chúng sanh.
Nếu như Phật thuyết đủ,
Mọi phương tiện hóa hiện,
Chúng sanh nghe như vậy,
Hẳn ôm lòng nghi hoặc.

Phần kệ tụng có 21 khổ rưỡi; tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng ở trước nêu rõ hình tích [của ngài Phú-lâu-na] và thụ ký cho ngài sẽ thành Phật, [chia làm 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất có 14 khổ kệ nêu rõ về hình tích [của ngài Phú-lâu-na]. Đoạn thứ hai có 7 khổ rưỡi tụng về việc thụ ký [cho ngài Phú-lâu-na].

Đoạn thứ nhất lại chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất có 7 khổ kệ, tụng nêu tổng quát về hình tích hiển lộ của hàng Thanh văn, tức là tụng lại ý nghĩa trong phần văn trường hàng tổng xưng “chúng con”. Tiểu đoạn thứ hai có 7 khổ kệ, tụng lại phần văn trường hàng ở trước nêu rõ hình tích hiển lộ của ngài Phú-lâu-na.[33]

Tiểu đoạn thứ nhất tụng nghĩa tổng quát lại có 5 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu tổng quát về việc làm của người con Phật khó nhận hiểu vì đã đạt được pháp thương xót thị hiện hình tích.

Phân đoạn thứ hai từ câu “biết người ưa pháp nhỏ” trở đi gồm 1 khổ kệ nêu rõ nguyên do thương xót thị hiện hình tích.

Phân đoạn thứ ba từ câu “dùng vô số phương tiện” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu rõ lợi ích của sự thương xót thị hiện hình tích.

Phân đoạn thứ tư, kể từ câu “trong giấu hạnh Bồ Tát” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc [chư Bồ Tát] bên trong thường giữ đạo Đại thừa nhưng bên ngoài thị hiện phạm lỗi Tiểu thừa.

Phân đoạn thứ năm từ câu “Nếu như Phật thuyết đủ” trở đi gồm 1 khổ kệ chỉ lược nói việc tạm ẩn giấu giáo pháp Đại thừa. Nói “cầu Tiểu” là chỉ cho việc cầu pháp Tiểu thừa; nói “lười nhác” là chỉ sự thối tâm Đại thừa. Không chỉ thị hiện làm Thanh văn mà còn thị hiện làm ngoại đạo cũng như phàm phu có đủ ba độc, như Xá-lợi-phất có sân, Nan-đà có tham, Điều-đạt có si... Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Ông Phú-lâu-na này,
Xưa với ngàn ức Phật,
Đã chuyên cần tu tập,
Gìn giữ, thuyết pháp Phật.

Cầu trí tuệ Vô thượng,
Nên ở nơi chư Phật,
Đứng đầu hàng đệ tử,
Nghe nhiều, có trí tuệ,
Thuyết giảng không sợ sệt,
Khiến người nghe hoan hỷ.
Chưa bao giờ chán mệt,
Trợ giúp các Phật sự.

Đã được thần thông lớn,
Đủ bốn trí vô ngại,
Biết căn tánh nhanh, chậm,
Thường thuyết pháp thanh tịnh,
Giảng rõ nghĩa “như thị”,
Giáo hóa ngàn ức người,
Khiến trụ nơi Đại thừa,
Tự thanh tịnh cõi Phật.

Tương lai cũng cúng dường,
Vô số các đức Phật,
Trợ giúp truyền chánh pháp,
Tự thanh tịnh cõi Phật.

Thường dùng các phương tiện,
Thuyết pháp, không sợ sệt,
Độ vô số chúng sanh,
Thành tựu Nhất thiết trí.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ông Phú-lâu-na này” trở đi, gồm 7 khổ kệ tụng nêu rõ hình tích của ngài Phú-lâu-na thuở xưa. Nội dung này trong kinh văn trường hàng có 3 phần, nay chỉ lược tụng thành 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ tụng nêu rõ việc quá khứ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Tương lai cũng cúng dường” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng về nhân tố tu hành [của ngài Phú-lâu-na] nơi đạo tràng của 3 đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai. [Như vậy là] lược bớt không tụng về 7 vị Phật [quá khứ] và Phật [Thích-ca] trong hiện tại.

KINH VĂN

Cúng dường các đức Phật,
Gìn giữ kho Pháp báu.
Về sau được thành Phật,
Danh hiệu là Pháp Minh,
Cõi nước tên Thiện Tịnh,
Do bảy báu hợp thành,
Thời đại tên Bảo Minh.

Chúng Bồ Tát rất đông,
Nhiều đến vô số ức,
Đều đạt thần thông lớn,
Đủ các lực, oai đức,
Đầy khắp cả cõi nước.

Thanh văn cũng vô số,
Ba minh, tám giải thoát,
Bốn trí không ngăn ngại,
Cùng hợp thành chúng tăng.

Chúng sanh cõi Phật ấy,
Đã dứt trừ dâm dục,
Đều do biến hóa sanh,
Đủ tướng tốt trang nghiêm,
Dùng pháp hỷ, thiền duyệt,
Không muốn ăn gì khác.

Cõi ấy không nữ giới,
Cũng không các đường ác.
Tỳ-kheo Phú-lâu-na,
Công đức đã trọn đủ,
Thành tựu cõi tịnh ấy,
Chúng hiền thánh rất đông.

Vô số việc như vậy,
Nay ta chỉ lược nói.

Đoạn thứ hai từ câu “cúng dường các đức Phật” trở đi, gồm 7 khổ rưỡi kệ tụng về việc thụ ký. Kinh văn trường hàng có 7 phần, nay phần kệ chỉ tụng thành 4 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu tiên tụng về nhân tu hành đã trọn vẹn.

Tiểu đoạn thứ hai nửa khổ kệ tiếp theo tụng về quả thuần thục đầy đủ.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Cõi nước tên Thiện Tịnh” trở đi gồm 3 câu tụng vượt sang tên hiệu cõi nước và thời đại.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Chúng Bồ Tát rất đông” trở đi gồm 5 khổ kệ và 3 câu, tụng về cõi nước [của Phật ấy] thanh tịnh rộng rãi, lược bớt không tụng [các yếu tố] thọ mạng [của Phật], thời gian chánh pháp trụ thế, sau khi Phật diệt độ dựng tháp [thờ kính]…

KINH VĂN

Bấy giờ, 1.200 vị A-la-hán tâm đạt tự tại liền khởi lên ý nghĩ rằng: “Chúng con đều hoan hỷ, được điều chưa từng có. Nếu như mỗi người chúng con đều được đức Thế Tôn thụ ký cho giống như các vị đại đệ tử kia, chẳng phải là vui thích lắm sao!” Đức Phật rõ biết suy nghĩ trong tâm các vị ấy, liền bảo ngài Ma-ha Ca-diếp: “Nay ta sẽ lần lượt theo thứ tự mà thụ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho 1.200 A-la-hán này.

“Trong đại chúng này, đại đệ tử của ta là Tỳ-kheo Kiều-trần-như rồi sẽ cúng dường 62.000 ức vị Phật, sau đó thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Ngoài ra, 500 A-la-hán trong số này, những vị như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-ni, Ưu-đà-di, A-nậu-lâu-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, Chu-đà, Sa-già-đà… cũng đều sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả đều cùng một danh hiệu là Phổ Minh.

Phần thứ hai nói việc thụ ký cho 1.200 vị chia thành 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất là khởi niệm thỉnh Phật thụ ký, tổng đoạn thứ hai là Phật thụ ký và tổng đoạn thứ ba 3 là [các vị đệ tử] trình bày sự nhận hiểu.

Tổng đoạn thứ nhất [nêu việc các đệ tử] khởi niệm thỉnh Phật thụ ký thì y theo kinh văn có thể hiểu được.

Tổng đoạn thứ hai nói việc Phật thụ ký, kinh văn chia ra có văn trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng lại có 3 đoạn.

Đoạn thứ nhất nói việc đức Phật đưa ra lời hứa chung sẽ thụ ký cho tất cả 1.200 vị.

Đoạn thứ hai nói riêng về việc thụ ký cho ngài Kiều-trần-như. Ngài Kiều-trần-như là vị đệ tử ngộ đạo trước nhất, đứng hàng đầu trong đại chúng nên được thụ ký riêng.

Đoạn thứ ba nói riêng về việc thụ ký cho 500 vị. Vì 500 vị ấy [khi thành Phật sẽ] cùng một danh hiệu nên được thụ ký riêng.

Hỏi: Chỉ thấy có 500 vị được thụ ký, không thấy đủ số 1.200 vị?

Đáp: 500 vị này tức là trong số 1.200 vị ấy. Trong phần kệ tụng, 1 khổ rưỡi kệ cuối cùng là nói việc thụ ký chung cho 700 vị [còn lại], cho nên tất cả là 1.200 vị.

Lại nữa, trong phẩm Khuyến khích thọ trì nói rằng: “Ta trước đây đã thụ ký chung, tất cả Thanh văn đều đã được thụ ký rồi.” Như vậy tức là chỉ đến 1 khổ rưỡi kệ này, không phải chỉ thụ ký cho 700 Thanh văn mà thôi.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa này nên nói kệ rằng:

Tỳ-kheo Kiều-trần-như,
Sẽ gặp vô số Phật,
Qua a-tăng-kỳ kiếp,
Mới thành Chánh Đẳng Giác.

Thường phóng hào quang lớn,
Đầy đủ các thần thông,
Vang danh khắp mười phương,
Chúng sanh đều cung kính.
Thường thuyết đạo Vô thượng,
Nên hiệu là Phổ Minh.

Cõi Phật ấy thanh tịnh,
Bồ Tát đều dũng mãnh,
Ở trên lầu gác đẹp.
Dạo chơi khắp mười phương,
Dùng những món quý nhất,
Phụng hiến lên chư Phật.

Cúng dường như như vậy rồi,
Trong lòng rất hoan hỷ,
Thoáng chốc đã quay về,
Có thần lực như vậy.

Phật trụ sáu muôn kiếp,
Chánh pháp trụ lâu hơn,
Tượng pháp lâu hơn nữa,
Pháp diệt, trời người buồn.

Năm trăm A-la-hán,
Theo thứ tự thành Phật,
Cùng một hiệu Phổ Minh,
Lần lượt thụ ký rằng:
“Sau khi ta diệt độ,
Vị này sẽ thành Phật,
Việc giáo hóa trong đời,
Cũng giống ta ngày nay.”

Về cõi Phật nghiêm tịnh,
Cùng những sức thần thông,
Chúng Thanh văn, Bồ Tát,
Chánh pháp, rồi tượng pháp,
Trụ thế bao nhiêu kiếp,
Đều như trên đã nói.

Ca-diếp, ông đã biết,
Năm trăm vị tự tại.
Các vị Thanh văn khác,
Cũng đều sẽ như vậy.
Ai vắng mặt hội này,
Ông nên vì họ nói.

Phần kệ tụng có 11 khổ kệ, và chia ra làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất có 9 khổ rưỡi kệ, tụng về việc thụ ký cho ngài Kiều-trần-như và 500 vị khác. Đoạn thứ hai có 1 khổ rưỡi kệ, nói về việc thụ ký chung cho tất cả Thanh văn.

KINH VĂN

Khi ấy, 500 vị A-la-hán ở trước Phật được thụ ký rồi, trong lòng hoan hỷ phấn khích, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến trước Phật, cúi đầu và mặt lễ sát chân Phật, hối lỗi tự trách: “Bạch Thế Tôn! Chúng con thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt đến diệt độ rốt ráo, nay mới biết rằng như thế là không có trí tuệ. Vì sao vậy? Chúng con lẽ ra đều được trí tuệ Như Lai, nhưng lại tự cho trí nhỏ nhoi là đủ.

“Bạch Thế Tôn! Ví như có người đến chơi nhà bạn thân, uống rượu say nằm. Khi ấy, người bạn thân có việc quan cần phải đi, liền lấy một hạt châu quý báu vô giá tặng cho bạn bằng cách buộc giấu vào giữa hai lớp áo, xong rồi mới rời đi. Người ấy say rượu nằm, hoàn toàn không hay biết. Đến khi tỉnh dậy ra đi, rồi sau đó lưu lạc đến nước khác, vì chuyện cơm áo phải chuyên cần nỗ lực làm lụng, hết sức gian nan vất vả, kiếm được chút ít liền cho là đủ. Sau đó, người bạn thân thuở trước gặp lại, thấy vậy kêu lên: “Ôi chao, anh bạn tôi! Sao vì cơm áo mà đến nỗi này! Ngày xưa tôi vì muốn bạn được an vui, tùy ý thụ hưởng năm món dục, nên vào ngày tháng năm đó đã lấy hạt châu quý báu vô giá buộc giấu vào giữa hai lớp vải áo của anh, nay vẫn còn nguyên đó, sao anh không biết, phải khó nhọc vất vả lo toan khổ sở chỉ cầu đủ sống, thật là ngu si quá! Nay anh có thể lấy hạt châu này bán đi để mua những thứ cần dùng, sẽ thường được như ý, không thiếu thốn gì nữa.”

Tổng đoạn thứ ba nói về 500 vị Thanh văn trình bày sự nhận hiểu, kinh văn có chia ra trường hàng và kệ tụng. Trong kinh văn trường hàng [chia làm 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất là người chép kinh nói về sự hoan hỷ của các vị. Đoạn thứ hai [các vị Thanh văn] tự trình bày sự nhận hiểu.

Đoạn thứ nhất có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là người chép kinh nêu sự vui mừng vì ngày nay được nhận hiểu [Đại thừa]. Tiểu đoạn thứ hai nói việc hổ thẹn vì trước đây không nhận hiểu, cho nên tự trách.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu sự vui mừng có 2 phân đoạn. § Phân đoạn thứ nhất nói rõ sự mừng vui hoan hỷ trong lòng. § Phân đoạn thứ hai nói sự cung kính biểu lộ ra bên ngoài.[Tiểu đoạn thứ hai,] nói “hối lỗi tự trách” tức là nói rõ việc [các vị Thanh văn] hổ thẹn vì trước đây không nhận hiểu [được Đại thừa].

Đoạn thứ hai, từ câu “Bạch Thế Tôn! Chúng con từ…” trở đi là [các vị Thanh văn] tự trình bày sự nhận hiểu, có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là nhận hiểu phần thuyết chánh pháp, tiểu đoạn thứ hai là nhận hiểu phần thuyết thí dụ.

Tiểu đoạn thứ nhất có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc hối tiếc vì nhận hiểu được chút ít đã cho là đủ. Phân đoạn thứ hai là tự trách mình căn cơ trì độn nên khó giác ngộ.

Phân đoạn thứ nhất, câu “Bạch Thế Tôn! Chúng con thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt đến diệt độ rốt ráo” là nêu sự hối trách vì thuở trước mê lầm, nhận hiểu được Tiểu thừa đã cho là đủ, không biết cầu đạo Đại thừa.

Phân đoạn thứ hai, câu “nay mới biết rằng” là tự trách mình căn cơ trì độn, đến nay mới bắt đầu tỏ ngộ, không nhận biết được sớm hơn, đến nay mới biết rằng Tiểu thừa không phải cứu cánh rốt ráo, Đại thừa mới là chân thật.

Tiểu đoạn thứ hai nhận hiểu phần thuyết thí dụ chia ra 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất [nói thí dụ, phân đoạn thứ hai nêu ý nghĩa nhận hiểu tương hợp với thí dụ].[34]

Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ có 2 ý. Ý thứ nhất nêu nghĩa sơ lược, ý thứ hai là nêu ra thí dụ.

Ý thứ nhất có 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất, câu “như là không có trí tuệ” lược nêu tình huống thí dụ.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích ý nghĩa “không có trí tuệ”.

Ý thứ hai nêu thí dụ có 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất nêu thí dụ người say rượu, tương hợp với phần thuyết pháp nói việc tự trách vì hiểu được chút ít đã cho là đủ, không biết cầu giáo pháp Đại thừa, và là nhận hiểu trong phần thuyết pháp nói ý nghĩa quyền biến trong các đời trước.

Tiểu ý thứ hai nêu thí dụ được người bạn thân nói rõ cho biết [về hạt châu trong áo], tương hợp với phần thuyết pháp nói việc tự trách mìn căn cơ trì độn nên khó tỏ ngộ, đến nay mới rõ biết, và là nhận hiểu trong phần thuyết pháp nói ý nghĩa hiển bày pháp thật trong các đời trước.

Tiểu ý thứ nhất lại có 3 điều.

Điều thứ nhất nêu thí dụ buộc hạt châu giấu trong chéo áo, tức là nhận hiểu ý nghĩa phần trước nói các vị vương tử kết duyên [đại chúng].

Điều thứ hai nêu thí dụ người say rượu nằm không hay biết gì, tức là nhận lãnh ý nghĩa phần trước nói gặp người thối tâm Đại thừa.

Điều thứ ba nêu thí dụ [người say] khi tỉnh dậy rồi lưu lạc đến nước khác, tức là nhận lãnh ý nghĩa phần trước nói dùng Tiểu thừa để tiếp nhận dẫn dắt.

[Giải thích điều thứ nhất, nói] “ví như có người”, tức là nói những người trong hàng Nhị thừa. Nói “bạn thân”, tức là nói 16 vị vương tử thuở trước. Nói “đến nhà”, tức là nói lấy giáo pháp Đại thừa làm nhà. Nói “uống rượu say nằm”, tức là nói lúc ấy cơ duyên Đại thừa tạm khởi phát, vô minh chỉ tạm thời ẩn phục, nên khi được nghe thuyết giảng kinh thì trong lòng nhận hiểu rõ được rất ít, nhưng vì vô minh che lấp nặng nề nên rồi lại mê muội quên mất.

Nói “say rượu” có hai ý nghĩa. Thứ nhất là quá say, không còn hay biết gì. Thứ hai là say nhẹ, vẫn còn hay biết đôi chút nhưng liền quên đi, nên cũng gọi là không biết. Tuy có 2 nghĩa nhưng rốt cuộc đều dẫn đến việc [người khác] buộc hạt châu [trong áo mình mà không biết], giống như người nghe tiếng trống độc.[35]

Nói “gặp việc quan phải đi” là nêu rõ việc các vương tử có căn cơ khởi phát ở các cõi nước khác, phải tùy duyên ứng hiện đến đó, cho nên nói là “phải đi”. Việc hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng sanh không phải là việc riêng, cho nên nói là “gặp việc quan”.

Nói “hạt châu quý báu vô giá” tức là trí tuệ quý báu về chân như thật tướng trong Nhất thừa. “Buộc giấu vào giữa hai lớp áo”, là nói các đức tính tàm quý, nhẫn nhục có thể ngăn chặn tâm sân hận và phòng ngừa những điều xấu ác bên ngoài, đó là lớp áo bên ngoài; tâm tin tưởng ưa thích bên trong hàm chứa các căn lành, tức lớp áo bên trong. Vào lúc nghe pháp khởi lên đôi chút tin tưởng ưa thích mong muốn, tức là chủng tử tạo nhân rốt ráo [Đại thừa] của trí tuệ và tâm nguyện.

[Giải thích điều] thứ hai, nói “người ấy say rượu nằm, hoàn toàn không hay biết”, đó là nói tâm vô minh che lấp nặng nề, tuy cố gắng cũng không nhớ biết được. Đây là nhận hiểu ý nghĩa trong thời gian giữa chừng chán nản thối lui, không thụ nhận giáo pháp Đại thừa.

[Giải thích điều] thứ ba, nói “người say khi tỉnh dậy rồi lưu lạc đến nước khác”. Đây là nhận hiểu ý nghĩa phần trên nói trong khoảng thời gian ở giữa được tiếp nhận dẫn dắt bằng Tiểu thừa, giáo hóa bằng ba thừa. Do căn lành muốn phát khởi, chán sợ khổ não tìm cầu an vui, cho nên nói rằng “tỉnh dậy rồi lưu lạc”. Do vô minh che lấp sự nhận hiểu, không biết hướng về quê hương để tìm cầu cơm áo là Đại thừa, cho nên nói rằng “lưu lạc đến nước khác” để tìm cầu cơm áo là Tiểu thừa. Nếu so sánh giữa ma với Phật thì cảnh giới ma sanh tử là “nước khác”, còn Phật pháp dù Đại thừa hay Tiểu thừa đều là “quê hương”. Nhưng nếu so sánh giữa Tiểu thừa với Đại thừa thì Tiểu thừa chưa thoát khỏi sanh tử nên vẫn còn là “nước khác”, Đại thừa đã vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử mới gọi là “quê hương”, tức là rốt ráo quay về nguồn cội. Đây là nêu rõ việc quay lưng với cõi nước Đại thừa mà đi sang cõi nước Tiểu Thừa, không biết dùng hạt châu quý giá để có được những thứ cần thiết, nên phải làm thuê để tự kiếm miếng ăn, nhận tiền công mỗi ngày, được chút ít cho là đủ.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Sau đó, người bạn thân thuở trước gặp lại” trở đi, nêu thí dụ nhờ người bạn thân nói rõ cho biết, tức là nhận lãnh ý nghĩa trong phần trước nói “do nhân duyên thuở trước nên ngày nay lại thuyết kinh Pháp hoa”, cũng như nghĩa “ban cho các con cùng một loại xe lớn”.

Tiểu ý này lại có 3 điều. Điều thứ nhất là quở trách, điều thứ hai là chỉ ra cho biết chỗ có hạt châu và điều thứ ba là khuyên nên bán đi mua những thứ cần dùng.

Điều thứ nhất nói quở trách là ví như phần trước nói [hàng Tiểu thừa] do tình chấp động khởi mà sanh nghi hoặc.

Điều thứ hai nói việc chỉ ra hạt châu là ví như nhân duyên các đời trước.

Điều thứ ba khuyên bán hạt châu là ví như việc được thụ ký làm Phật.

Trong ba vòng thuyết chánh pháp, thuyết nhân duyên, thuyết thí dụ đều có đủ 3 ý nghĩa này.

Trong vòng thuyết chánh pháp, [kệ tụng nói] “Ta dạy cho thoát khổ, nhưng chưa được Niết-bàn”, tức là quở trách. Năm lượt nói rõ về chư Phật,[36] tức là khai mở chỉ bày, chỉ rõ hạt châu. Ngài Xá-lợi-phất được thụ ký, tức là khuyên bán hạt châu.

Trong vòng thuyết thí dụ, [Phật bảo ngài Xá-lợi-phất]: “Chẳng phải trước đây ta đã từng nói rằng ‘Các đức Phật Thế Tôn dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện để thuyết pháp, đều là vì dẫn dắt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’”, câu này tức là quở trách. [Nói thí dụ] ba loại xe, rồi ban cho cùng một loại xe, tức là chỉ rõ hạt châu. Hàng trung căn được thụ ký, tức là khuyên bán hạt châu.

[Trong vòng thuyết nhân duyên, kệ tụng nói:] “Đời trước kết nhân duyên, nay ta sắp nói rõ, các ông khéo lắng nghe” tức là quở trách. [Các vương tử] giảng lại [kinh Pháp hoa] kết duyên [với đại chúng], rồi sau trở lại thuyết giảng Đại thừa, tức là chỉ rõ hạt châu báu. Hàng hạ căn được thụ ký tức là khuyên bán hạt châu.

Trong thí dụ “buộc hạt châu giấu giữa hai lớp áo”, có 3 ý so sánh tương ứng trong 3 vòng thuyết giảng. Ban sơ đức Phật vừa thành đạo dưới gốc cây Bồ-đề, dự định dùng Đại thừa giáo hóa, tức là thí dụ buộc hạt châu; thấy chúng sanh không có cơ duyên [Đại thừa] nên dừng việc giáo hóa, tức là thí dụ người uống rượu say nằm; sau đó Phật liền bày ra phương tiện [để giáo hóa], tức là thí dụ tỉnh dậy rồi ra đi.

Trong phẩm Thí dụ nói “từng ở nơi 20.000 ức vị Phật”, tức là thí dụ buộc hạt châu. [Trong phẩm Tin hiểu nói ông trưởng giả] “sai một người hầu cận gấp rút đuổi theo”, [rồi nói đứa con bị đuổi bắt] “ngã lăn ra đất bất tỉnh”, tức là thí dụ người uống rượu say nằm. [Phẩm Thí dụ lại nói ông trưởng giả] dùng ba loại xe dẫn dụ được [các con ra khỏi căn nhà đang cháy], tức là thí dụ tỉnh dậy rồi đi.

Trong phần thuyết nhân duyên [phẩm Thí dụ hóa thành] nói “ở nơi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng”, tức là thí dụ buộc hạt châu; nói “giữa đường mỏi mệt muốn thối lui”, tức là thí dụ người uống rượu say nằm; vì tiếp nhận dẫn dắt mà vận dụng Tiểu thừa, tức là thí dụ tỉnh dậy rồi đi.

Những ý nghĩa như trên đều là nhận hiểu pháp quyền thừa. Nói “vào ngày tháng năm đó” là chỉ cho thời gian ở nơi đức Phật Đại Thông Trí Thắng.

KINH VĂN

“Đức Phật cũng như [người bạn thân kia], khi còn là Bồ Tát giáo hóa chúng con, khiến cho phát tâm cầu Nhất thiết trí, [giống như ban cho hạt châu quý báu,] nhưng chúng con lại quên mất đi, không hề hay biết, khi được quả A-la-hán rồi liền tự cho đó là diệt độ, [giống như người kia] mưu sinh vất vả gian nan, vừa được chút ít đã cho là đủ, trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí vẫn còn nguyên đó, không hề mất đi. Nay đức Thế Tôn vì thức tỉnh chúng con nên mới dạy rằng: “Này các tỳ-kheo! Chỗ mà các ông đạt được đó không phải là diệt độ rốt ráo. Từ lâu ta đã giúp các ông gieo trồng căn lành là hạt giống Phật, vì dùng phương tiện nên thị hiện tướng Niết-bàn [Nhị thừa], nhưng các ông thật ra chưa được diệt độ.” Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay mới biết mình thật là Bồ Tát, được thụ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nhân duyên đó nên hết sức hoan hỷ, được việc chưa từng có.”

Phân đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật cũng như người bạn thân kia” trở đi, nêu nghĩa tương hợp với thí dụ. Trong thí dụ vốn có 2 ý [trước sau], phân đoạn này cũng có 2 ý, mỗi ý đều có 3 tiểu ý.

Ý thứ nhất, từ câu “giáo hóa chúng con” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ nhất phần trước là thí dụ buộc hạt châu. Từ câu “nhưng chúng con lại quên mất đi” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ hai phần trước là thí dụ uống rượu say nằm không biết gì. Từ câu “được quả A-la-hán rồi” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ ba phần trước là thí dụ tỉnh dậy rồi đi lưu lạc.

Ý thứ hai, từ câu “trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí” trở đi, tương hợp với thí dụ về sau gặp lại người bạn thân chỉ ra cho biết có hạt châu. Phần trước có 3 tiểu ý, phần này cũng có 3 tiểu ý. Từ câu “trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí vẫn còn nguyên đó, không hề mất đi”, tương hợp với tiểu ý thứ nhất phần sau là thí dụ quở trách. Từ câu “Từ lâu ta đã giúp các ông gieo trồng căn lành là hạt giống Phật” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ hai phần sau là thí dụ chỉ ra cho biết có hạt châu. Từ câu “chúng con hôm nay mới biết” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ ba phần sau là khuyên bán hạt châu để đổi lấy những thứ cần dùng.

KINH VĂN

Bấy giờ, nhóm các ngài A-nhã Kiều-trần-như… muốn lặp lại ý nghĩa trên nên cùng đọc kệ rằng:

Chúng con nghe Phật ban
Lời thụ ký an ổn,
Hoan hỷ chưa từng có,
Lễ trí Phật vô lượng.
Nay trước mặt Thế Tôn,
Xin tự hối lỗi lầm.

Phần kệ tụng có 12 khổ rưỡi, chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng về sự nhận hiểu được từ trong tâm. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất 1 khổ kệ, tụng về sự hoan hỷ vui mừng. Tiểu đoạn thứ hai nửa khổ kệ, tụng về sự hối tiếc tự trách.

KINH VĂN

Kho báu Phật vô lượng,
Con chỉ được chút ít,
Lại như người ngu si,
Tự cho đó là đủ.

Ví như người nghèo khó,
Đến chơi nhà bạn thân.
Nhà bạn rất giàu có,
Thết đãi nhiều món ngon,
Rồi lấy hạt châu quý
Giấu trong hai lớp áo
Tặng cho trước khi đi,
Người say nằm, không biết.

Sau khi tỉnh dậy rồi,
Lưu lạc sang nước khác,
Cầu cơm áo qua ngày,
Mưu sinh thật khó khăn,
Được ít cho là đủ,
Chẳng mong cầu tốt hơn.
Không biết trong áo mình,
Có hạt châu vô giá.

Người bạn cho hạt châu,
Sau gặp lại người nghèo,
Thấy vậy liền quở trách,
Rồi chỉ rõ hạt châu.

Người nghèo thấy hạt châu,
Lòng vui mừng khôn xiết,
Được giàu có, sung túc,
Tùy ý hưởng năm dục.

Chúng con cũng như vậy,
Thế Tôn trong đêm dài,
Thường thương xót giáo hóa,
Khiến phát tâm Vô thượng.

Chúng con vì ngu si,
Nên không hề hay biết,
Được phần nhỏ Niết-bàn,
Tưởng đủ, chẳng cầu thêm.

Phật đánh thức chúng con:
“Đó chưa phải diệt độ.
Được Trí tuệ Vô thượng,
Mới diệt độ chân thật.”

Chúng con được nghe Phật,
Thụ ký việc trang nghiêm,
Cùng thứ lớp thành Phật,
Thân tâm đều hoan hỷ.

Đoạn thứ hai từ câu “Kho báu Phật vô lượng” trở đi, gồm 11 khổ kệ, tụng về việc [các vị Thanh văn] tự trình bày sự nhận hiểu. Phần kinh văn trường hàng ở trước có 2 tiểu đoạn, [ở đây có 3 tiểu đoạn].

Tiểu đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ tụng về việc hối tiếc tự trách vì chỉ được ít đã cho là đủ, lược bớt không tụng ý nghĩa [giáo pháp Đại thừa] khó gặp, đến nay mới được biết.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Lại như người ngu si” có nửa khổ kệ, tụng lược việc nêu thí dụ. Câu “tự cho đó là đủ” là giải thích ý “ngu si”.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 10 khổ kệ, tụng nghĩa thuyết thí dụ, chia ra hai phân đoạn khai mở và tương hợp.

Phân đoạn thứ nhất gồm 6 khổ kệ, tụng nghĩa khai mở thí dụ. Phân đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp thí dụ.

Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý.

Ý thứ nhất gồm 4 khổ kệ, tụng về nghĩa bỏ quên mất hạt châu quý báu mà không biết.

Ý thứ hai gồm 2 khổ kệ, tụng về việc người bạn thân chỉ ra cho biết hạt châu.

Những phần kinh văn khác đều có thể nhận hiểu dễ dàng.

_______________________


CHÚ THÍCH

[1] Việc thụ ký cho 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học được nói trong phẩm kế tiếp.

[2] Văn Cú dùng “滿願 - Mãn Nguyện” là cách dịch nghĩa tên của ngài Phú-lâu-na.

[3] Nguyên tác Văn Cú dùng “三達 - tam đạt” (ba sự thông đạt), cũng tức là “三明 - tam minh” (ba sự sáng suốt) của chư Phật, bao gồm (1) Túc mệnh trí chứng minh, biết rõ tướng trạng của chính mình và chúng sinh trong vô số kiếp quá khứ; (2) Sinh tử trí chứng minh, biết rõ tướng trạng sống chết của chúng sinh, do nghiệp đã tạo mà khi mệnh chung sinh sẽ sinh vào các đường ác hay các đường lành...; (3) Lậu tận trí chứng minh, giải thoát tâm hữu lậu, diệt trừ tất cả phiền não.

[4] Theo bản Anh dịch của H. Kern thì câu này là “Chỉ có đức Như Lai mới biết được khuynh hướng và sự tu tập trong quá khứ của chúng con.” (None but the Tathâgata knows our inclination and our ancient course.)

[5] Bản Anh dịch của H. Kern là “không ai có thể sánh bằng Phú-lâu-na” (none able to equal Pūna).

[6] Diệu giác (妙覺), quả vị cuối cùng trong 52 giai vị của hàng Bồ Tát, sau khi vượt qua Đẳng giác, cho nên cũng đồng nghĩa với quả Phật.

[7] Văn Cú dẫn câu này là “vô năng tri” (không ai có thể biết), nhưng kinh văn thực sự nói là “vô năng tận kỳ ngôn luận chi biện - 無能盡其言論之辯” (không ai có thể thấu suốt được…). Chúng tôi điều chỉnh theo đúng kinh văn.

[8] Bản Anh dịch của H. Kern dịch chỗ này là “99 vị Phật” (ninety-nine Buddhas).

[9] Kinh văn nói “ 為淨佛土故 - vị tịnh Phật độ cố”, xét theo ngữ cảnh phía sau mô tả cõi Phật nghiêm tịnh mà ngài Phú-lâu-na đạt được khi thành Phật, nên hiểu rằng đây là đang nói đến những nhân tố tu tập giúp thành tựu cõi Phật thanh tịnh đó. Kinh Duy-ma-cật nói: “Tùy chỗ thành tựu cho chúng sinh mà được cõi Phật thanh tịnh.”

[10] Bảy vị Phật (七佛) bao gồm cả đức Phật Thích-ca, cụ thể là Tỳ-bà-thi Phật (毘婆尸佛), Thi-khí Phật (尸棄佛), Tỳ-xá-phù Phật (毘舍浮佛), Câu-lưu-tôn Phật (拘留孫佛), Câu-na-hàm Mâu-ni Phật (拘那含牟尼佛), Ca-diếp Phật (迦葉佛) và Thích-ca Mâu-ni Phật (釋迦牟尼佛).

[11] Bản Anh dịch của H. Kern là “996 vị Phật” (a thousand less four).

[12] Đến đây là hết quyển 7 của Văn Cú, bắt đầu quyển 8.

[13] Bản Anh dịch của H. Kern nói là “trông giống như được hình thành từ nhiều ngàn cõi nước nhiều như số cát của con sông Hằng” (…will look as if formed by thousands of spheres similar to the sands of the river Ganges).

[14] Kinh văn nói “無女人 - vô nữ nhân”, nghĩa là không có nữ giới, nhưng như vậy thì cũng không có sự phân biệt để gọi là “nam giới”, như câu kinh tiếp theo nói “không có sự dâm dục”, cho nên có thể hiểu sự mô tả ở đây như là “không có giới tính”. Tất cả chúng sanh đều hóa sanh nên không có sự khác biệt giới tính.

[15] Kinh văn chỉ nói là 32 tướng (三十二相 - tam thập nhị tướng), bản Anh dịch của H. Kern nói đủ hơn là “32 tướng của bậc đại nhân” (thirty-two characteristics of a great man). Bản Hán dịch Chánh Pháp hoa kinh cũng nói đủ là “32 tướng biểu lộ của bậc đại nhân” (三十二表大人之相 - tam thập nhị biểu đại nhân chi tướng). Theo cách hiểu thông thường thì ở đây chỉ đến 32 tướng tốt giống như của đức Phật.

[16] Ở đây Văn Cú nói quá giản lược nên hơi khó hiểu. Tham khảo sách Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏) của ngài Cát Tạng (吉藏), trong quyển 9 nói chi tiết hơn, rằng có 2 cách giải thích. Thứ nhất, nói “đất bằng như lòng bàn tay” vì khi đang thuyết kinh đức Phật chỉ vào lòng bàn tay của Phật để nêu ví dụ. Thứ hai, vì dưới đáy biển có một tảng đá vuông vức mỗi bề rộng đến 4.000 dặm bằng phẳng như mặt kính, được gọi là “chưởng thạch - 掌石” (đá lòng bàn tay), cho nên đức Phật nêu ra để so sánh.

[17] Vì kinh văn nói không có các đường ác, tức là không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thuần các đường lành tức là chỉ có các cảnh giới chư thiên và loài người.

[18] Văn Cú gọi là Nguyệt tạng kinh (月藏經), quyển 9, nay tìm thấy là một phần trong Đại phương đẳng Đại tập kinh (大方等大集經), quyển 55, tức là Nguyệt tạng phần (月藏分). Trong các bản Mục lục cũng còn thấy ghi Nguyệt tạng kinh, 10 quyển, nhưng hiện không còn thấy phiên bản này, chỉ còn tìm được phần in chung trong kinh Đại tập. Nội dung trích dẫn ở đây được tìm thấy trong Đại Chánh tạng, Tập 13, số 397, trang 363, tờ a.

[19] Văn Cú chỉ nói lược, phần kinh văn được trích dẫn nêu đầy đủ 10 công đức này là: thứ nhất, không sợ sệt đối với tất cả chúng sanh; thứ hai, khởi tâm đại từ đối với tất cả chúng sanh; thứ ba, dứt trừ hết tập khí xấu ác; thứ tư, ít bệnh khổ, ít phiền não, làm việc quyết đoán; thứ năm, được tuổi thọ lâu dài; thứ sáu, được các loài phi nhân theo bảo vệ; thứ bảy, ngủ nghỉ an ổn, không có ác mộng; thứ tám, không có người thù oán; thứ chín, không sợ sệt các đường ác; thứ mười, sau khi mệnh chung được tái sinh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 8 đến dòng 13.)

[20] Phần nội dung này trong kinh Đại tập trình bày riêng và nói rõ, nếu có thể đem công đức giữ giới không giết hại này hồi hướng về quả vị Bồ-đề, tinh tấn tu tập thành tựu quả Phật, thì khi ấy cõi Phật của vị này không có nỗi lo sợ đánh đạp làm hại, và những chúng sanh nào được tuổi thọ dài lâu sẽ sanh về cõi ấy. Văn Cú lược dẫn nên có vẻ như những điều này thuộc về công đức thứ mười. Chúng tôi đã tách ra theo đúng nội dung kinh văn. Sự tách riêng này cũng cho thấy rõ, việc giữ giới không phải nhân tạo thành quả Phật, mà chỉ mang lại thêm một phần tốt đẹp nếu người giữ giới có nỗ lực tu tập thành Phật. Đối với các điều còn lại tiếp theo sau đây cũng tương tự như vậy. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 13-17.)

[21] Tương tự như điều trên, ở đây theo kinh văn kể ra đầy đủ 10 công đức là: thứ nhất, được quả báo đầy đủ lớn lao, làm việc quyết đoán; thứ hai, có được tài sản riêng, không phải chung cùng với người khác; thứ ba, tài sản không sợ bị tiêu tán bởi 5 mối họa: vua quan, trộm cướp, hỏa hoạn, lụt lội và con cái hư hỏng; thứ tư, luôn được mọi người thương yêu kính trọng không hề chán ghét; thứ năm, dạo chơi khắp nơi đều không gặp ngăn trở; thứ sáu, đi lại không sợ sệt; thứ bảy, thường vui thích bố thí; thứ tám, tiền tài vật báu tuy không mong cầu mà tự nhiên nhanh chóng có được; thứ chín, tài sản có được rồi không bị tiêu tán; thứ mười, sau khi mệnh chung được tái sanh về cảnh giới lành. Câu cuối cùng nói về cõi Phật trang nghiêm nếu người giữ giới này tinh tấn tu tập thành tựu quả Phật. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 18 đến dòng 28.)

[22] Văn Cú nói “不婬- bất dâm” (không dâm dục), nhưng trong kinh Nguyệt tạng, tức bản kinh được trích dẫn, lại nói là “休息邪婬 - hưu tức tà dâm” (ngưng dứt việc tà dâm). Xét bối cảnh ở đây trình bày 10 nghiệp lành dạy cho người cư sĩ nên đề cập đến “tà dâm” hợp lý hơn là đoạn dứt dâm dục. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 29.)

[23] Kinh văn nói đủ 10 công đức của người không tà dâm là: thứ nhất, được các căn đầy đủ tốt đẹp, làm việc quyết đoán; thứ hai, được an trú trong sự thanh tịnh xa lìa tham dục; thứ ba, không quấy nhiễu, gây buồn khổ cho người khác; thứ tư, thường khiến cho mọi người hài lòng; thứ năm, mọi người đều ưa thích ngắm nhìn; thứ sáu, thường phát khởi sự chuyên cần tinh tấn; thứ bảy, thấy được sự đáng sợ của vòng sanh tử; thứ tám, thường vui thích làm việc bố thí; thứ chín, thường ưa thích tìm cầu chánh pháp; thứ mười, sau khi chết được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ c, dòng 1 đến dòng 4.)

[24] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của việc không nói dối là: thứ nhất, được mọi người tin tưởng, nói ra điều gì cũng được tin cậy; thứ hai, dù ở bất cứ nơi đâu, thậm chí đối với chư thiên, nói ra điều gì cũng đúng; thứ ba, mở miệng nói thì có hương thơm tỏa ra như hương hoa sen xanh; thứ tư, ở giữa hàng trời người có thể một mình làm chứng để sáng tỏ sự việc; thứ năm, được mọi người thương yêu cung kính, không còn nghi hoặc; thứ sáu, thường nói ra những lời chân thật; thứ bảy, tâm ý luôn thanh tịnh; thứ tám, thường không nói những lời siểm nịnh, nói ra điều gì luôn thích hợp; thứ chín, thường được nhiều niềm vui; thứ mười, sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ c, dòng 9 đến dòng 15.)

[25] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của việc không nói hai lưỡi là: thứ nhất, thân thể được an ổn không thể làm hại; thứ hai, quyến thuộc được an ổn hòa thuận không thể phá hoại; thứ ba, bạn bè thân hữu an ổn không lừa dối phá hoại; thứ tư, niềm tin kiên định không bị phá hoại; thứ năm, được pháp bình đẳng không hư hoại; thứ sáu, oai nghi bình đẳng không thể phá hoại; thứ bảy, thiền quán an ổn không thể phá hoại; thứ tám, chánh định an ổn không thể phá hoại; thứ chín, đạt sức nhẫn nhục an ổn không thể phá hoại; thứ mười, sau khi chết tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ c, dòng 20 đến dòng 25.)

[26] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không nói lời độc ác là: thứ nhất, lời nói êm dịu dễ nghe; thứ hai, lời nói thông tuệ lưu loát; thứ ba, luôn nói lời hợp lý lẽ; thứ tư, luôn nói lời tốt đẹp; thứ năm, nói ra lời nào đều đúng đắn, chính xác; thứ sáu, luôn nói lời chính trực, thẳng thắn; thứ bảy, luôn nói lời không sợ sệt; thứ tám, không nói những lời khinh miệt, xúc phạm; thứ chín, nói lời phân biện chánh pháp rõ ràng sáng tỏ; thứ mười, sau khi chết được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 2 đến dòng 5.)

[27] Văn Cú không có ý này, nhưng kinh văn nói “離諸惡語 - ly chư ác ngữ”.

[28] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không nói lời thêu dệt là: thứ nhất, được chư thiên và loài người yêu kính; thứ hai, được những người sáng suốt tán thành vui theo; thứ ba, thường yêu thích sự thật; thứ tư, không phải thường sống chung với những kẻ mà người trí không ưa thích; thứ năm, nghe được điều gì đều có thể nhận hiểu lãnh hội; thứ sáu, thường được người khác tôn trọng yêu kính; thứ bảy, thường ưa thích và được sống nơi yên tĩnh vắng vẻ; thứ tám, thành ưa thích sự tịch lặng an nhiên của bậc hiền thánh; thứ chín, thường lìa xa kẻ xấu ác, gần gũi bậc hiền thánh; thứ mười, sau khi chết được sanh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 9 đến dòng 14.)

[29] Văn Cú chỉ nói “強記不忘 - cường ký bất vong” nhưng kinh văn đoạn này nói là “端正眾生來生其國強記不忘樂住離欲 - đoan chánh chúng sanh lai sanh kỳ quốc cường ký bất vong nhạo trụ ly dục”.

[30] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không tham lam là: thứ nhất, các căn của thân không khiếm khuyết; thứ hai, khẩu nghiệp được thanh tịnh; thứ ba, tâm ý không tán loạn; thứ tư, được quả báo thù thắng; thứ năm, được giàu có sang quý; thứ sáu, được mọi người ưa thích ngắm nhìn; thứ bảy, những quả báo đã đạt được thì quyến thuộc không thể phá hoại; thứ tám, thường được gặp gỡ với những người sáng suốt; thứ chín, thường không xa lìa âm thanh thuyết pháp; thứ mười, sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 19 đến dòng 23.)

[31] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không sân hận là: thứ nhất, xa lìa hết thảy mọi sự sân hận; thứ hai, không tham muốn tích chứa tài vật; thứ ba, các bậc thánh đều vui thích hài lòng; thứ tư, thường được gặp gỡ các bậc hiền thánh; thứ năm, thường được những sự lợi ích; thứ sáu, thường được dung nhan đoan chánh; thứ bảy, nhìn thấy chúng sanh vui mừng liền sanh tâm hoan hỷ; thứ tám, đạt được chánh định; thứ chín, thân, miệng và ý đều được nhu hòa điều thuận tốt đẹp; thứ mười, sau khi chết được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 28 đến tờ b dòng 4.)

[32] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không tà kiến là: thứ nhất, tâm tánh hiền thiện nhu hòa, bạn bè hiền lành; thứ hai, dù có nghiệp báo đến, thậm chí khiến phải mất mạng cũng không khởi sanh các niệm xấu ác; thứ ba, hết lòng kính tin Tam bảo, ví như có được thiên thần cứu sống cũng không tin theo; thứ tư, giữ theo chánh kiến, không kinh sợ những điều quái dị, cũng không theo việc lựa chọn ngày giờ tốt xấu; thứ năm, thường được sanh trong hai cõi trời, người, lìa xa các cảnh giới xấu ác; thứ sáu, thường vui thích với những việc tạo phúc đức, được người sáng suốt có trí tuệ ngợi khen xưng tán; thứ bảy, từ bỏ các lễ nghi của thế tục, thường cầu Thánh đạo giải thoát; thứ tám, xa lìa các quan điểm đoạn kiến và thường kiến, thể nhập được pháp nhân duyên sanh; thứ chín, thường được gặp gỡ với những người có sự phát tâm và khuynh hướng chân chánh; thứ mười, sau khi chết sẽ được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ b, dòng 9 đến dòng 16.)

[33] Văn Cú vẫn dùng tên dịch nghĩa là Mãn Nguyện (滿願), chúng tôi điều chỉnh thống nhất một tên gọi theo trong kinh Pháp hoa để độc giả tiện theo dõi.

[34] Văn Cú dường như có sự nhầm lẫn khi phân chia cấu trúc ở đây. Chúng tôi đã bổ sung 1 phân đoạn để phù hợp với giảng giải thực tế ở phần sau.

[35] Nguyên tác dùng “độc cổ nhĩ”, lấy ý từ ví dụ trong kinh Đại Bát Niết-bàn. Có người dùng chất độc bôi lên mặt trống. Trống ấy khi đánh lên thì hàng Thanh văn nghe tiếng trống đêu chết cả. Đây là ví trống như pháp thân bình đẳng, chất độc như tâm từ bi vô duyên, đều là những phẩm tính của Đại thừa, không thích hợp với hàng Thanh văn.

[36] Nguyên tác nói “ngũ Phật chương - 五佛章”, tức là chỉ đến 5 lượt giảng giải về chư Phật, bao gồm thứ nhất là chư Phật nói chung, thứ hai nói về chư Phật quá khứ, thứ ba nói về chư Phật vị lai, thứ tư nói về chư Phật trong hiện tại và thứ năm nói về đức Phật Thích-ca.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 7 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...